Khi nào một chiếc máy ảnh 35mm vừa là RF và vừa là SLR?
Alpa 7 với ống kính Kern Switar 50mm f1.8
Thật khó tưởng tượng ra cơ cấu hoạt động của một chiếc máy
ảnh vừa là Rangefinder và vừa là Single Len Reflex này! Nhưng mọi chuyện đều
hoàn toàn có thể xảy ra.
Mọi câu chuyện của thế giới thiết bị máy ảnh đều thay đổi khi người đàn ông mang tên Oskar Barnack thực hiện ý tưởng của mình và phát minh về một thiết bị chụp ảnh dùng khổ film 35mm nhỏ gọn và tiện dụng năm 1913. Chiếc máy ảnh đầu tiên ấy mang tên Leica và thời kỳ cực thịnh của nó và đến cả nay là những chiếc Leica dòng M – những chiếc máy ảnh Rangefinder. Nhắc đến Leica là nhắc đến những chiếc máy ảnh Leica M.
Đến cuối thập kỷ 30, hệ thống máy ảnh 35mm với cơ cấu gương lật đơn – Single Len Reflex manh mún ra đời, với chiếc đầu tiên là Gomz Sport (1936) và Exacta Kine. Từ thời điểm này với những hoàn thiện về sau, những chiếc máy ảnh SLR này chiếm lĩnh phần lớn thị trường máy ảnh với những ưu điểm tuyệt vời của nó.
Và khi nhắc tới máy ảnh 35mm, một là Range Finder và phần còn lại là SLR. Vẫn có nhiều chiếc máy ảnh với cơ cấu khác dùng film 35, nhưng không thông dụng và phổ biến nên ít được nhắc đến, chả hạn như máy ảnh song kính (Twin len Reflex) dùng film 35 như Contaflex của Zeiss Ikon, hoặc những chiếc TLR với back dùng cho film 35mm.
Trong khi Oskar Barnack bắt đầu làm việc cho Ernst Leitz Optische để thiết kế ra những chiếc Leica đầu tiên, thì vào năm 1918, tại Thụy Sỹ, công ty Pignon SA ra đời ở thị trấn Pallaigues. Công ty này tập trung sản xuất các linh kiện và thiết bị cơ khí chính xác cung cấp cho ngành công nghiệp đồng hồ nổi tiếng thế giới Thụy Sĩ. Cũng trong thời gian đó, một người đàn ông khác người Ukaina tên Bogobolskey (Jacquet Bolsey) vốn theo học ngành dược ở Geneva, nhưng với khả năng thiết kế trời phú, ông thành lập công ty Bol SA sản xuất các thiết bị máy quay phim. Bol SA được đổi lên thành Bolex sau này, và những chiếc máy quay Bolex về sau rất nổi tiếng trên toàn thế giới. Một mối duyên trời định khi công ty Pignons muốn mở rộng ngành nghề kinh doanh và Jacquet Bolsey trở thành kỹ sư thiết kế chính của công ty này. Năm 1942, chiếc máy ảnh mang tên Alpa đầu tiên ra đời với nhãn hiệu Alpa Standard với ống kính cơ bản Angenieux 50mm f2.9. Chiếc máy ảnh Standard này hoạt động theo cơ cấu Coupled Range Finder, như những chiếc Leica III lấy nét điểm vàng trước đó. Những chiếc máy ảnh này khi xuất cho thị trường Mỹ được đổi tên thành Bolsey hoặc Bolca. Những chiếc máy ảnh này hiện tại rất hiếm. Đến năm 1942, ở hội chợ Basel, chiếc máy ảnh đầu tiên sử dụng hệ thống gương phản chiếu Single Len Reflex được giới thiệu mang tên Alpa Reflex với góc nhìn 90 độ từ trên xuống, và tất nhiên, chiếc máy này vẫn là RF. Ở Mỹ thì mang tên Bolsey Reflex. Đây là một sự kết hợp đầu tiên giữa 2 cơ chế RF và SLR trong một chiếc máy film 35mm. Nhưng năm 1949, chiếc Alpa Prima Reflex ra mắt với hệ thống gương phản xạ với góc nhìn 45 độ. Và chiếc máy này vẫn dùng hệ thống lấy nét Range Finder. Chiếc Alpa Prisma Reflex nhìn qua nhang nhác giống chiếc SLR Rectaflex được sản xuất thủ công của người Ý. Những chiếc máy ảnh Alpa Standard, Alpa Reflex hay Alpa Prisma Reflex này còn được gọi là thế hệ máy ảnh Alpa thứ nhất, hay được đánh số Alpa 1, 2 và 3.
Hệ thống máy ảnh thế hệ thứ hai của Alpa ra đời ngay sau đó với nhiều sự cải tiến tuyệt vời so với thời bấy giờ. Khi Bolsey chuyển sang Mỹ với công ty riêng của mình, nhà thiết kế Andre Cornet trở thành kỹ sư trưởng của Alpa. Các máy Alpa thế hệ hai ra đời với một kiểu dáng tuyệt đẹp, kèm theo đó là ống kính Kern Switar APO 50mm f1.8 vào năm 1951, sau chuyển thành Kern Makro Switar 50mm f1.8 vào năm 1959. Máy ảnh Alpa 4 với góc nhìn 90 độ với kết cấu như Alpa Reflex. Máy ảnh Alpa 5 với góc nhìn 45 độ qua gương chiếu phản xạ và cả qua viewfinder. Máy ảnh Alpa 6 với hệ thống lấy nét hình cắt RangeFinder và vừa có thế nhìn qua khung ngắm phản xạ 45 độ. Máy ảnh Alpa 7 với hệ thống lấy nét Range Finder hình trượt (như những chiếc Leica dòng M) nhưng khác ở chỗ Leica M lấy nét theo hình trượt chiều ngang, còn Alpa 7 lấy nét theo chiều dọc khi 2 hình chập lại làm một là đúng nét. Bên cạnh đó, ta vẫn có thể nhìn qua khung ngắm phản xạ 45 độ để nhìn rõ chi tiết đối tượng muốn chụp. Chiếc Alpa 8 là chiếc máy ảnh cuối cùng sử dụng cả 2 hệ thống RF và SLR với một sự kết hợp tiến bộ từ những chiếc Alpa 6 và Alpa 7. Đó là người chụp có thể dễ dàng lấy nét với cả 2 hệ thống RF và SLR. Hệ thống lấy nét hình trượt theo chiều dọc với các khung ngắm 50mm, 90mm và 135mm, đồng thời, vừa có thế lấy nét hình cắt trong khung ngắm SLR. Chiếc Alpa 8 là một chiếc máy ảnh toàn diện và thật khó có thể hình dung về cơ cấu hoạt động của chiếc máy ảnh này. Một chiếc máy ảnh tuyệt vời, và chắc chắn ta cũng ko cần nhắc đến chất lượng của nó, đặc biệt khi đó là một sản phẩm lắp ráp thủ công được làm từ những nghệ nhân sản xuất đồng hồ Thụy Sỹ.
Trong cả quãng thời gian khoảng 40 năm tồn tại trong ngành máy ảnh của mình, Alpa là một cái tên xa lạ đối với người dùng phổ thông, bởi vì triết lý sản xuất của hãng là quan tâm chất lượng hàng đầu mà không cần biết số lượng và chi phí sản xuất ra một chiếc máy ảnh là bao nhiêu. Nếu tính trung bình trong vòng 40 năm hoạt động, chỉ có khoảng 39000 chiếc Alpa được sản xuất ra, và cứ cho là một năm sản xuất được khoảng 1000 cái. Trừ đi những ngày nghỉ, ngày lễ thì cả bao nhiêu con người và nghệ nhân của công ty Pignons chỉ làm ra được khoảng 3 cái máy ảnh / một ngày, và được làm bằng tay, thủ công hoàn toàn. Với con số ấy thì đủ để biết là chất lượng một cái máy ảnh Alpa đến mức nào. Và cũng có thể ước lượng được giá của một chiếc Alpa sẽ đắt đến mức nào.
Alpa không sản xuất hệ thống ống kính cho các máy ảnh của mình mà họ thuê ngoài sản xuất. Và một câu hỏi thú vị đặt ra là tại sao máy ảnh Alpa lại có được một hệ thống ống kính tuyệt vời và đến từ các hãng ống kính hàng đầu thế giới như vậy? Câu trả lời nằm ở chỗ nhà thiết kế Jacquet Bolsey với công ty máy quay phim Bolex. Phải chăng khi ông đã quá quen với chất lượng hàng đầu của những hãng sản xuất ống kính máy quay phim và máy ảnh và có một mối quan hệ đặc biệt đối với họ. Đó là Kern Switar và Spectro của Thụy Sỹ, Angenieux và Kinoptik của Pháp, Schneider của Đức, Kilfitt của Leichstetein, Old Deflt của Hà Lan, Som Berthiort Pháp và Rodenstock, Đức.
Ống kính của các máy ảnh Alpa thế hệ hai là:
Ống Normal: Kern Switar APO 50mm f1.8 và Kern Makro Switar APO 50mm f1.8, Old Delft Alfinon 50mm f2.8, Schnieder Xenon 50mm f1.9, Spectro Alora 50mm f3.5.
Ống wide: Hệ thống ống kính rộng đến từ Angenieux Retrofocus 28mm f3.5, Kilfitt Makro Kilar D và E với tiêu cự 40mm f2.8 (trước đó là 40mm f3.5), Schacht Alpagon 35mm f3.5, Spectros 35mm f3.5.
Ống tele: Hệ thống ống kính xa của Angenieux Alfinar 90mm f2.5, Schneider với Xenar 75mm f3.5 và Tele Xenar 135mm f3.5 và 360mm f5.5, Kilfitt với Makro Kilar 90mm f2.8, Old Deflt với Algular 135mm f3.2 và Afelar 180mm f4.5, Schacht Altelar 90mm f2.8 và nổi bật nhất là chiếc Kinoptik APO 100mm f2 và 150m f2.5 nổi tiếng và hàng đầu thế giới.
Năm 1959, các máy Alpa thế hệ hai được nâng cấp với chữ B đằng sau, như 4b, 5b, 6b, 7b và 8b với chiếc cần lên phim theo chiều ngược và rất Alpa này. Chiếc Alpa 5 còn có chiếc Alpa 5a với số lượng rất ít. Sang đến thế hệ Alpa đời ba thì hoàn toàn là những chiếc SLR với Alpa 6c, 9d và đời bốn là Alpa 10, 11. Năm 1979, công ty đã bắt đầu nghiên cứu máy ảnh Medium Format và sau đó phá sản trong thời đại lên ngôi của máy ảnh Nhật với sự sản xuất hàng loạt và giá rất rẻ. Thương hiệu Alpa được mua lại và máy ảnh medim format Alpa 12 với back số Phase One được đánh số nối tiếp từ các đời trước và được giới thiệu về sau trong thập kỷ 90.
Số lượng các máy Alpa thế hệ 1 và thế hệ 2 được sản xuất:
Alpa Reflex: 3209 cái, năm 1948-49
Alpa 5: 2044 cái, năm 1955
Alpa 5a: 137 cái, năm 1955
Alpa 6: 2575 cái, năm 1958
Alpa 7: 3702 cái, năm 1955
Alpa 7b: khoảng 64 đến 68 cái, năm 1959
Alpa 7s: 19 cái, năm 1958
Alpa 8: 245 cái, năm 1958
Gianker,
Thêm hình ảnh về các đời máy và phân loại ở đây.
Mọi câu chuyện của thế giới thiết bị máy ảnh đều thay đổi khi người đàn ông mang tên Oskar Barnack thực hiện ý tưởng của mình và phát minh về một thiết bị chụp ảnh dùng khổ film 35mm nhỏ gọn và tiện dụng năm 1913. Chiếc máy ảnh đầu tiên ấy mang tên Leica và thời kỳ cực thịnh của nó và đến cả nay là những chiếc Leica dòng M – những chiếc máy ảnh Rangefinder. Nhắc đến Leica là nhắc đến những chiếc máy ảnh Leica M.
Đến cuối thập kỷ 30, hệ thống máy ảnh 35mm với cơ cấu gương lật đơn – Single Len Reflex manh mún ra đời, với chiếc đầu tiên là Gomz Sport (1936) và Exacta Kine. Từ thời điểm này với những hoàn thiện về sau, những chiếc máy ảnh SLR này chiếm lĩnh phần lớn thị trường máy ảnh với những ưu điểm tuyệt vời của nó.
Và khi nhắc tới máy ảnh 35mm, một là Range Finder và phần còn lại là SLR. Vẫn có nhiều chiếc máy ảnh với cơ cấu khác dùng film 35, nhưng không thông dụng và phổ biến nên ít được nhắc đến, chả hạn như máy ảnh song kính (Twin len Reflex) dùng film 35 như Contaflex của Zeiss Ikon, hoặc những chiếc TLR với back dùng cho film 35mm.
Trong khi Oskar Barnack bắt đầu làm việc cho Ernst Leitz Optische để thiết kế ra những chiếc Leica đầu tiên, thì vào năm 1918, tại Thụy Sỹ, công ty Pignon SA ra đời ở thị trấn Pallaigues. Công ty này tập trung sản xuất các linh kiện và thiết bị cơ khí chính xác cung cấp cho ngành công nghiệp đồng hồ nổi tiếng thế giới Thụy Sĩ. Cũng trong thời gian đó, một người đàn ông khác người Ukaina tên Bogobolskey (Jacquet Bolsey) vốn theo học ngành dược ở Geneva, nhưng với khả năng thiết kế trời phú, ông thành lập công ty Bol SA sản xuất các thiết bị máy quay phim. Bol SA được đổi lên thành Bolex sau này, và những chiếc máy quay Bolex về sau rất nổi tiếng trên toàn thế giới. Một mối duyên trời định khi công ty Pignons muốn mở rộng ngành nghề kinh doanh và Jacquet Bolsey trở thành kỹ sư thiết kế chính của công ty này. Năm 1942, chiếc máy ảnh mang tên Alpa đầu tiên ra đời với nhãn hiệu Alpa Standard với ống kính cơ bản Angenieux 50mm f2.9. Chiếc máy ảnh Standard này hoạt động theo cơ cấu Coupled Range Finder, như những chiếc Leica III lấy nét điểm vàng trước đó. Những chiếc máy ảnh này khi xuất cho thị trường Mỹ được đổi tên thành Bolsey hoặc Bolca. Những chiếc máy ảnh này hiện tại rất hiếm. Đến năm 1942, ở hội chợ Basel, chiếc máy ảnh đầu tiên sử dụng hệ thống gương phản chiếu Single Len Reflex được giới thiệu mang tên Alpa Reflex với góc nhìn 90 độ từ trên xuống, và tất nhiên, chiếc máy này vẫn là RF. Ở Mỹ thì mang tên Bolsey Reflex. Đây là một sự kết hợp đầu tiên giữa 2 cơ chế RF và SLR trong một chiếc máy film 35mm. Nhưng năm 1949, chiếc Alpa Prima Reflex ra mắt với hệ thống gương phản xạ với góc nhìn 45 độ. Và chiếc máy này vẫn dùng hệ thống lấy nét Range Finder. Chiếc Alpa Prisma Reflex nhìn qua nhang nhác giống chiếc SLR Rectaflex được sản xuất thủ công của người Ý. Những chiếc máy ảnh Alpa Standard, Alpa Reflex hay Alpa Prisma Reflex này còn được gọi là thế hệ máy ảnh Alpa thứ nhất, hay được đánh số Alpa 1, 2 và 3.
Hệ thống máy ảnh thế hệ thứ hai của Alpa ra đời ngay sau đó với nhiều sự cải tiến tuyệt vời so với thời bấy giờ. Khi Bolsey chuyển sang Mỹ với công ty riêng của mình, nhà thiết kế Andre Cornet trở thành kỹ sư trưởng của Alpa. Các máy Alpa thế hệ hai ra đời với một kiểu dáng tuyệt đẹp, kèm theo đó là ống kính Kern Switar APO 50mm f1.8 vào năm 1951, sau chuyển thành Kern Makro Switar 50mm f1.8 vào năm 1959. Máy ảnh Alpa 4 với góc nhìn 90 độ với kết cấu như Alpa Reflex. Máy ảnh Alpa 5 với góc nhìn 45 độ qua gương chiếu phản xạ và cả qua viewfinder. Máy ảnh Alpa 6 với hệ thống lấy nét hình cắt RangeFinder và vừa có thế nhìn qua khung ngắm phản xạ 45 độ. Máy ảnh Alpa 7 với hệ thống lấy nét Range Finder hình trượt (như những chiếc Leica dòng M) nhưng khác ở chỗ Leica M lấy nét theo hình trượt chiều ngang, còn Alpa 7 lấy nét theo chiều dọc khi 2 hình chập lại làm một là đúng nét. Bên cạnh đó, ta vẫn có thể nhìn qua khung ngắm phản xạ 45 độ để nhìn rõ chi tiết đối tượng muốn chụp. Chiếc Alpa 8 là chiếc máy ảnh cuối cùng sử dụng cả 2 hệ thống RF và SLR với một sự kết hợp tiến bộ từ những chiếc Alpa 6 và Alpa 7. Đó là người chụp có thể dễ dàng lấy nét với cả 2 hệ thống RF và SLR. Hệ thống lấy nét hình trượt theo chiều dọc với các khung ngắm 50mm, 90mm và 135mm, đồng thời, vừa có thế lấy nét hình cắt trong khung ngắm SLR. Chiếc Alpa 8 là một chiếc máy ảnh toàn diện và thật khó có thể hình dung về cơ cấu hoạt động của chiếc máy ảnh này. Một chiếc máy ảnh tuyệt vời, và chắc chắn ta cũng ko cần nhắc đến chất lượng của nó, đặc biệt khi đó là một sản phẩm lắp ráp thủ công được làm từ những nghệ nhân sản xuất đồng hồ Thụy Sỹ.
Trong cả quãng thời gian khoảng 40 năm tồn tại trong ngành máy ảnh của mình, Alpa là một cái tên xa lạ đối với người dùng phổ thông, bởi vì triết lý sản xuất của hãng là quan tâm chất lượng hàng đầu mà không cần biết số lượng và chi phí sản xuất ra một chiếc máy ảnh là bao nhiêu. Nếu tính trung bình trong vòng 40 năm hoạt động, chỉ có khoảng 39000 chiếc Alpa được sản xuất ra, và cứ cho là một năm sản xuất được khoảng 1000 cái. Trừ đi những ngày nghỉ, ngày lễ thì cả bao nhiêu con người và nghệ nhân của công ty Pignons chỉ làm ra được khoảng 3 cái máy ảnh / một ngày, và được làm bằng tay, thủ công hoàn toàn. Với con số ấy thì đủ để biết là chất lượng một cái máy ảnh Alpa đến mức nào. Và cũng có thể ước lượng được giá của một chiếc Alpa sẽ đắt đến mức nào.
Alpa không sản xuất hệ thống ống kính cho các máy ảnh của mình mà họ thuê ngoài sản xuất. Và một câu hỏi thú vị đặt ra là tại sao máy ảnh Alpa lại có được một hệ thống ống kính tuyệt vời và đến từ các hãng ống kính hàng đầu thế giới như vậy? Câu trả lời nằm ở chỗ nhà thiết kế Jacquet Bolsey với công ty máy quay phim Bolex. Phải chăng khi ông đã quá quen với chất lượng hàng đầu của những hãng sản xuất ống kính máy quay phim và máy ảnh và có một mối quan hệ đặc biệt đối với họ. Đó là Kern Switar và Spectro của Thụy Sỹ, Angenieux và Kinoptik của Pháp, Schneider của Đức, Kilfitt của Leichstetein, Old Deflt của Hà Lan, Som Berthiort Pháp và Rodenstock, Đức.
Ống kính của các máy ảnh Alpa thế hệ hai là:
Ống Normal: Kern Switar APO 50mm f1.8 và Kern Makro Switar APO 50mm f1.8, Old Delft Alfinon 50mm f2.8, Schnieder Xenon 50mm f1.9, Spectro Alora 50mm f3.5.
Ống wide: Hệ thống ống kính rộng đến từ Angenieux Retrofocus 28mm f3.5, Kilfitt Makro Kilar D và E với tiêu cự 40mm f2.8 (trước đó là 40mm f3.5), Schacht Alpagon 35mm f3.5, Spectros 35mm f3.5.
Ống tele: Hệ thống ống kính xa của Angenieux Alfinar 90mm f2.5, Schneider với Xenar 75mm f3.5 và Tele Xenar 135mm f3.5 và 360mm f5.5, Kilfitt với Makro Kilar 90mm f2.8, Old Deflt với Algular 135mm f3.2 và Afelar 180mm f4.5, Schacht Altelar 90mm f2.8 và nổi bật nhất là chiếc Kinoptik APO 100mm f2 và 150m f2.5 nổi tiếng và hàng đầu thế giới.
Năm 1959, các máy Alpa thế hệ hai được nâng cấp với chữ B đằng sau, như 4b, 5b, 6b, 7b và 8b với chiếc cần lên phim theo chiều ngược và rất Alpa này. Chiếc Alpa 5 còn có chiếc Alpa 5a với số lượng rất ít. Sang đến thế hệ Alpa đời ba thì hoàn toàn là những chiếc SLR với Alpa 6c, 9d và đời bốn là Alpa 10, 11. Năm 1979, công ty đã bắt đầu nghiên cứu máy ảnh Medium Format và sau đó phá sản trong thời đại lên ngôi của máy ảnh Nhật với sự sản xuất hàng loạt và giá rất rẻ. Thương hiệu Alpa được mua lại và máy ảnh medim format Alpa 12 với back số Phase One được đánh số nối tiếp từ các đời trước và được giới thiệu về sau trong thập kỷ 90.
Số lượng các máy Alpa thế hệ 1 và thế hệ 2 được sản xuất:
Alpa Reflex: 3209 cái, năm 1948-49
Alpa 5: 2044 cái, năm 1955
Alpa 5a: 137 cái, năm 1955
Alpa 6: 2575 cái, năm 1958
Alpa 7: 3702 cái, năm 1955
Alpa 7b: khoảng 64 đến 68 cái, năm 1959
Alpa 7s: 19 cái, năm 1958
Alpa 8: 245 cái, năm 1958
Gianker,
Thêm hình ảnh về các đời máy và phân loại ở đây.