Hà Tây, làng.
Trong những ngày nghìn năm đại lễ, cái tên Hà Tây đã không còn, và bị mất đi một cách chính thức. Một ngày Tết âm đầu năm 2010, trong vài phút ngồi ngồi uống nước ở một quán ven đường ở Đình So, gần chùa Trăm Gian, một bà cụ chủ quán dung dị kể chuyện: "trước còn bé, tôi được "anh chị" dắt ra Hà Nội một lần, về mà vẫn nhớ mãi, nay đã gần 60 tuổi rồi mà mới chỉ ra Hà Nội có vài lần". Và nơi này, trong tâm tưởng những người dân nơi đây, Hà Tây vẫn mãi là Hà Tây. Và trong tâm tưởng của tôi, Hà Tây vẫn thế, cái hồn của vùng đất này vẫn thế. Chả lẽ, giờ lại bảo: "ra Hà Nội để đi Chùa Hương, hay ra Hà Nội để đi thăm dân tộc Mường (Hòa Bình)!!"
Tôi thích không khí làng, những ngôi làng cổ, những ngôi nhà nhỏ bé đậm chất nông thôn Bắc Bộ. Mà nguyên nhân là tôi bị ngấm từ nhỏ với những lần về chơi nhà người bác họ ở làng Cự Đà. Hồi đó, khoảng cuối thập kỷ 80, cả làng đều là nhà ba gian, sân rộng sâu bên trong cửa nhà, đường gạch xếp quanh co, tường loang lổ vữa và gạch đỏ. Nhà nào cũng quay chuồng lợn ra phía đường đi. Ao làng ở chính giữa, các cây cổ thụ ven bờ với bộ rễ hằn lên cả nền đất, khiến tôi thường dùng tay vớt nước hồ và đổ vào các ao được tạo thành từ rễ cây đó. Vào vụ cần, cả làng đi cắt và mang ra rửa ngập cả ao. Sau này, trong thâm tâm tôi vẫn nhớ như in hình bóng của ngôi làng ấy. Nói không ngoa, nếu như cũ, thì nó có thể sánh ngang với vẻ đẹp của các ngôi làng cổ (như làng cổ Hongcun) ở chân núi Hoàng Sơn ( ngọn núi đẹp nhất và là nguồn cảm hứng cho các bức tranh thủy mặc cổ Trung Hoa), gần Tô Châu. Cũng các ngôi nhà ngói san sát nhau đó, cũng cái ao lớn ngay chính giữa làng, cũng những con đường và ngõ nhỏ quanh co, chỉ khác một điều: ở Hoàng Sơn thì chất liệu chính là đá, còn ở Hà Tây, chất liệu là gạch. Con sông Tô Lịch ngày đó nước trong xanh, bà con vẫn thả thuyền kéo lưới, đánh vó. Từng khóm tre trên bờ nối nhau rủ bóng, gió rì rào thổi và lá rụng, xoay khẽ khàng trước khi chạm vào con đường gạch.
Cự Đà chỉ là một trong vô vàn ngôi làng Hà Tây tuyệt đẹp, và hiện tại thì đang trên con đường đô thị hóa và bản sắc, kiến trúc, văn hóa... cũng đang dần bị phai nhạt và mất đi như chính cái tên Hà Tây. Bởi vì, nó ở quá gần Hà Nội. Nhưng ở các vùng xa hơn, vẫn còn rất rất nhiều nét đẹp khác nữa...
Tôi thích không khí làng, những ngôi làng cổ, những ngôi nhà nhỏ bé đậm chất nông thôn Bắc Bộ. Mà nguyên nhân là tôi bị ngấm từ nhỏ với những lần về chơi nhà người bác họ ở làng Cự Đà. Hồi đó, khoảng cuối thập kỷ 80, cả làng đều là nhà ba gian, sân rộng sâu bên trong cửa nhà, đường gạch xếp quanh co, tường loang lổ vữa và gạch đỏ. Nhà nào cũng quay chuồng lợn ra phía đường đi. Ao làng ở chính giữa, các cây cổ thụ ven bờ với bộ rễ hằn lên cả nền đất, khiến tôi thường dùng tay vớt nước hồ và đổ vào các ao được tạo thành từ rễ cây đó. Vào vụ cần, cả làng đi cắt và mang ra rửa ngập cả ao. Sau này, trong thâm tâm tôi vẫn nhớ như in hình bóng của ngôi làng ấy. Nói không ngoa, nếu như cũ, thì nó có thể sánh ngang với vẻ đẹp của các ngôi làng cổ (như làng cổ Hongcun) ở chân núi Hoàng Sơn ( ngọn núi đẹp nhất và là nguồn cảm hứng cho các bức tranh thủy mặc cổ Trung Hoa), gần Tô Châu. Cũng các ngôi nhà ngói san sát nhau đó, cũng cái ao lớn ngay chính giữa làng, cũng những con đường và ngõ nhỏ quanh co, chỉ khác một điều: ở Hoàng Sơn thì chất liệu chính là đá, còn ở Hà Tây, chất liệu là gạch. Con sông Tô Lịch ngày đó nước trong xanh, bà con vẫn thả thuyền kéo lưới, đánh vó. Từng khóm tre trên bờ nối nhau rủ bóng, gió rì rào thổi và lá rụng, xoay khẽ khàng trước khi chạm vào con đường gạch.
Cự Đà chỉ là một trong vô vàn ngôi làng Hà Tây tuyệt đẹp, và hiện tại thì đang trên con đường đô thị hóa và bản sắc, kiến trúc, văn hóa... cũng đang dần bị phai nhạt và mất đi như chính cái tên Hà Tây. Bởi vì, nó ở quá gần Hà Nội. Nhưng ở các vùng xa hơn, vẫn còn rất rất nhiều nét đẹp khác nữa...